Powered By Blogger
Hiển thị các bài đăng có nhãn am-nhac. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn am-nhac. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2021

Phạm Đình Chương và “Ly rượu mừng” (1955)

Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Thân phụ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh. Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban Văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.
Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 18 tuổi, với tác phẩm đầu tay là ca khúc "Ra đi khi trời vừa sáng". Năm 1951, ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng ông thành lập Ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Trong thập niên 1950, ông đã viết những tác phẩm thành công và để đời như "Ly rượu mừng", "Xuân tha hương", "Thủa ban đầu", "Tiếng dân chài" v.v.. Đáng kể nhất là trường ca bất hủ "Hội trùng dương" mà ông viết về đất nước Việt Nam hoa gấm, qua ba bài ca nói về con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Theo như lời ông đã nói với gia đình, trường ca này đã phải tốn mất 4 năm để hoàn tất.
Một sáng tác lãng mạn và để đời thứ hai trong thập niên 1950 đã gắn liền vào tên tuổi Phạm Đình Chương: đó là ca khúc bất hủ phổ thơ Đinh Hùng nhan đề "Mộng dưới hoa". Riêng nói về "Mộng dưới hoa", ca khúc này đã theo năm tháng để trở thành một trong những bài tình ca được ưa chuộng và hát nhiều nhất của nhạc Việt. Trong thập niên 1960, ông đã sáng tác một loạt ca khúc phổ thơ rất thành công và được yêu chuộng như "Nửa hồn thương đau", "Ngợi ca tình yêu" và "Đêm màu hồng" (thơ Thanh Tâm Tuyền), "Khi cuộc tình đã chết" (Du Tử Lê), "Người đi qua đời tôi" (Trần Dạ Từ) và nổi bật nhất là ca khúc "Đôi mắt người Sơn Tây" (Quang Dũng). Từ đó, Phạm Đình Chương thường được cho là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Giai đoạn này cũng là lúc ông lập ra phòng trà tên gọi Đêm Màu Hồng và với ban hợp ca Thăng Long, đã biến nơi này thành chỗ hội tụ của các văn nghệ sĩ đương thời.
Sau biến cố năm 1975, Phạm Đình Chương vượt biên sang định cư tại California, Hoa Kỳ vào năm 1979. Ông định cư tại quận Cam cùng gia đình từ đó. Trong khoảng thời gian sống tại Hoa Kỳ, ông đã viết một số ca khúc cuối cùng gồm những tác phẩm phổ thơ như "Đêm nhớ trăng Sài gòn", "Quê hương là người đó", "Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển" (phổ thơ Du Tử Lê), "Hạt bụi nào bay qua" (Thái Tú Hạp) v.v.. Ngoài ra, ông đã hoạt động rất thàng công qua những buổi trình diễn tại các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.
Vào mùa hè năm 1991, ông lâm bệnh và mất đi vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại quận Cam, California, ở tuổi 62. Theo như gia đình ông kể lại, sau khi người anh của ông là nghệ sĩ lão thành Hoài Trung qua đời 8 năm sau đó, vào năm 1998, vào một buổi sáng nắng ấm tại miền Nam Cali, gia đình ông đã đem tro cốt của hai ông rải ngoài biển như trong một ca khúc ông viết trong thời gian cuối cùng có nhan đề “Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển” phổ từ thơ thi sĩ Du Tử Lê".
Band nhạc Thăng Long 


Nhạc sĩ Cung Tiến có nhận định về nhạc Phạm Đình Chương: “Nếu phải dùng một tính từ duy nhất để xác định đặc điểm của những ca khúc Phạm Đình Chương thì có lẽ tôi sẽ chọn từ ngữ “đằm thắm”. Dường như bất cứ một bài hát nào của anh – từ những khúc mô tả cảm xúc cá nhân (“Xóm đêm”), gợi lại một dĩ vãng (“Mưa Sài gòn mưa Hà Nội”, “Nửa hồn thương đau”), chia sẻ nhịp đập chung của trái tim tập thể (“Ly rượu mừng”, “Đón xuân”) đến những khúc lý tưởng hóa những tình tự dân tộc (“Hội trùng dương”, “Bài ngợi ca tình yêu”) và đặc biệt là những khúc hát làm thăng hoa ái tình (“Mộng dưới hoa”, “Đêm màu hồng”) – ta đều thấy cùng tỏa ngát ra, từ giai điệu hay lời ca, một hương thơm của tình cảm sâu sắc, đậm đà và tha thiết… Giai điệu và hòa âm của anh đã nở rộ thành những đóa hoa thơm, quý và hiếm. Những giai điệu và hợp âm ấy rướn vút lên trong không gian âm nhạc và như cánh chim bay đi sẽ chẳng níu lại được. Ý nhạc sẽ còn phảng phất trong tâm tưởng người nghe như hương lan đêm, sẽ còn chập chờn trong ký ức người hát như cánh bướm mộng…”
Phạm Đình Chương đã viết những ca khúc có "giai điệu và hợp âm vút lên trong không gian âm nhạc”, thể hiện tâm trạng hân hoan của mọi người khi mùa xuân về như “Đón xuân” theo điệu fox vui tươi và “Ly rượu mừng” theo điệu valse.
Từ lâu nay, người ta đã biết nhiều về hoàn cảnh ra đời của ca khúc “Ly rượu mừng”: năm 1955, nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, thư ký tòa soạn tờ báo Đời Mới, đã yêu cầu Phạm Đình Chương sáng tác một bản nhạc xuân thể hiện không khí vui tươi của miền Nam tự do khi ấy và ông đã sáng tác ngay ca khúc "Ly rượu mừng" để đăng vào số Tết. Lời của ca khúc “Ly rượu mừng” là những lời chúc khi mời nhau chén rượu, thể hiện niềm vui của người dân miền Nam sau khi hòa bình vừa được vãn hồi và nền Đệ nhất cộng hòa mới vừa được thành lập (năm 1955).
Chiến tranh đã chấm dứt nên mọi hoạt động kinh tế được phục hồi, “anh nông phu vui lúa thơm hơi”, người thương gia buôn bán có lợi tức và người công nhân thoát khỏi cuộc sống nghèo khó. Ngày xuân tươi mới, mỗi người đều thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng và niềm vui ấy như lan tỏa khắp nơi khi mọi người “rót tràn đầy chén quang san”. Lời chúc tốt đẹp nhất được dành cho nhau khi nâng chén rượu: chúc người lính chiến đấu thành công, hát khúc khải hoàn và trở về đoàn tụ với mẹ già; chúc người mẹ già vĩnh viễn dứt bỏ nỗi buồn; chúc những đôi uyên ương xây dựng được tổ ấm trong một thế giới yên lành và chúc những người nghệ sĩ có được những tác phẩm để “tô thêm đời mới”. Nhưng trên tất cả những lời chúc cho mỗi người là lời chúc cho quê hương “máu xương thôi tuôn rơi” và mãi mãi có cuộc sống yên vui trong hòa bình. Cảm xúc dạt dào trong ca khúc này cũng là cảm xúc của những người dân miền Nam bắt đầu dựng xây cuộc sống mới dưới bầu trời tự do và thấy "ước mơ hạnh phúc nơi nơi" đang dần trở thành hiện thực.
LY RƯỢU MỪNG
Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó
á a a a
Nhấp chén đầy vơi
Chúc người người vui
á a a a
Muôn lòng xao xuyến duyên đời
Rót thêm tràn đầy chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đàng
Chiến đấu công thành
Sáng cuộc đời lành
Mừng người vì Nước quên thân mình
Kìa nơi xa xa có bà mẹ già
Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa
Chúc bà một sớm quê hương
Bước con về hòa nỗi yêu thương
á a a a
Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính
á a a a
Chúc mẹ hiền dứt u tình
Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương
Xây tổ ấm trên cành yêu đương
Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ
Tiếng thi ca nét chấm phá tô thêm đời mới
Bạn hỡi, vang lên
Lời ước thiêng liêng
Chúc non sông hoà bình, hoà bình
Ngày máu xương thôi tuôn rơi
Ngày ấy quê hương yên vui
đợi anh về trong chén tình đầy vơi
Nhấc cao ly này
Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh bình
Muôn người hạnh phúc chan hoà
Ước mơ hạnh phúc nơi nơi
Hương thanh bình dâng phơi phới.

Cuối bài, Thanh Nhàn mời bạn nghe bản này qua sự trình bày của band nhạc Thăng Long cùng tiếng pháo nhé !

Thân mến !

Sưu tầm





Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

Đom đóm, Giao Linh & Nguyễn Văn Đông

Hình như bây giờ ở đồng bằng người ta chẳng còn thấy con đom đóm nữa. 
Hồi bé về quê ngoại ở Quán Gánh, cách trung tâm Hồ Gươm của Hà Nội có mười mấy cây số, tôi thấy đom đóm bay có lúc cả chục con trong vườn nhà bà ngoại.

Tôi thích lắm, tôi nghe chuyện Trạng bắt đom đóm làm đèn học và cứ nhìn thấy đom đóm là tôi liên tưởng đến những nhà bác học thông thái.

Mẹ tôi bán dép rong ven Hồ Gươm, từ đoạn hàng Dầu cho đến đoạn bưu điện Bờ Hồ. Tôi đi đưa cơm cho mẹ, hay chạy sang bên ven hồ chơi. Chỗ có cây chín gốc, mà mãi sau này người ta gọi nó một cái tên quý phái là Lộc Vừng.

Ở cạnh cây chín gốc có một bãi đất phẳng, nhẵn thín. Ở đó có một ông mù ngồi hát xin tiền. Ông đánh đàn ghi ta và hát những bài nhạc vàng. Lạ thật, chẳng biết tầm năm 1981 dòng nhạc ấy có bị cấm hay không. Hoặc người ta kệ ông hát kiếm tiền. Ông mù hàng ngày ngồi đó dạo đàn, khi nào thấy có người thì ông hát.

Ông hát bài Đêm Buồn Tỉnh Lẻ và bài Đom Đóm.
Đó là hai bài tôi nhớ nhất, bài Đêm Buồn Tỉnh Lẻ nhiều nhà có đài Akai vẫn bật, nên tôi nhớ được. Bài Đom Đóm thì nhớ bởi vì những con đom đóm vốn dĩ đã ấn tượng với tôi như kể trên.
Thế rồi chả mấy chốc đến lúc tôi đến tuổi đi lính,  cũng rơi vào một đêm ôm súng canh gác bờ ao. Tức gác cái ao vì sợ bọn trộm cá ở mấy làng ven đó. Ven bờ ao thấp thoáng bóng những đốm sáng lập lờ bay. Thật đúng như lời bài hát.



- Tiền đồn ven biên, anh vừa lên phiên đổi gác. Từng bầy đom đóm, như thắp sáng kỷ niệm hai chúng ta...

Tuy tiền đồn của tôi là ven ao, và bọn địch là những thằng trộm cá, khẩu CKC của tôi không có đạn mà chỉ lưỡi lê và tôi chẳng có kỷ niệm với em gái nào cả. Thế nhưng tôi thả hồn về tuổi thơ ở ngôi nhà tranh của bà ngoại, khiến phiên gác đi qua cũng nhanh.
Năm 2016 tức đã 35 năm kể từ khi đưa cơm cho mẹ, nghe chùa ông mù hát bài Đom Đóm bên Hồ Gươm, ở nước ngoài trong một đêm mưa lâm thâm như đêm nay,  tôi nghe bài Đom Đóm.
Bài hát do ca sĩ Giao Linh thể hiện.
Nhưng đoạn tiền đồn ven biên anh vừa lên phiên đổi gác đã được thay thế bằng'' một chiều tha hương, bên đường cô đơn dừng bước ''.
Nghe thấy hay, hợp với cảnh mình đang tha hương xứ người.  Bây giờ còn có tình xưa mà ngẫm nữa chứ. Hợp quá đi.
Nhưng mà ngẫm một lúc thấy nó gợn cấn thế nào. Hoàn cảnh chinh chiến một người trai phải lao vào trận chiến nó khác với một người tha phương rất nhiều chứ. Tha phương thì có tỉ loại tha phương, ham giàu sang, đi học hỏi kiến thức nghề nghiệp,ham cuộc sống mới mà đi, tóm lại đi để đổi đời mình.  Còn đi chiến trận ý nghĩa khác nhiều, chẳng người chiến sĩ nào hăng hái vác súng đi trận để cuộc đời cá nhân mình thay đổi cả.
Sự thay đổi chỉ một câu khiến bài hát trở thành lạc lõng và tầm thường.
Đi lính trận có tuỳ tiện mà bỏ về cưới người yêu được không? Không thể nào, thế nên đó mới là ước mơ làm lên cái hồn của bài hát.
Ông đi tha phương là đi đâu?   Nói như bây giờ là đi tỉnh xa, hoặc đi tây. Ông có về được không? có gì mà không về được, vài triệu tàu xe nếu ông ở trong nước hoặc dăm trăm, một nghìn usd tiềnvé máy bay nếu ông ở nước ngoài.
Đơn giản có thế. Không về được với người yêu mà phải viết thành bài hát thì nghe nó bi kịch hoá sự việc quá. Còn ông lưu vong tị nạn ư, thế thì ông đã có giấy tờ ngon lành hơn bao người khác, ông chỉ việc mời em người yêu sang chơi và đăng ký kết hôn là xong, đôi lứa bên nhau. Làm gì mà tâm trạng đến mức viết thành một bài hát. Nếu có tâm trạng thì phải là bài '' tôi đã lầm đưa em sang đây hay tôi đã lầm theo anh sang đây ''.
Tác giả bài Đom Đóm là một quân nhân, cố đại tá nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Sự thay đổi lời của bài hát khiến cho bài hát mất đi cái ý nghĩa của nội dung bài hát mà tác giả gửi gắm. Khiến người nghe nhầm từ tâm trạng của một người lính thời chiến trở thành tâm trạng của một ông tha phương cầu thực, mộng làm giàu, mộng đổi đời.

Nhiều người nói phải biết ơn ca sĩ , họ phải sửa lời để bài hát còn được sống.

Đây là thời của đủ loại công nghệ tin học, chẳng cần sân khấu thì những bài hát bất hủ vẫn được người ta tìm đến nghe qua đủ phương tiện. Các ca sĩ hát vì sự tồn tại của bản thân mình, chứ chẳng phải vì trân trọng gì tác giả. Nói trắng thế cho nhanh.
Ông hát rong mù, giữa thủ đô Hà Nội những năm đầu thập kỷ 80, sự kiểm duyệt văn hoá còn ghê sợ hơn, nhưng ông vẫn hát nguyên lời.
Các bạn là ca sĩ có danh, đừng vì chút tiền mà biến tấu lời bài hát, làm cho nội dung bài hát,  nỗi niềm của tác giả bị sai lệch đi đến độ tầm thường.
Có bạn thanh minh rằng Giao Linh hát bài đó, lúc đó nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông còn sống, như thế là được sự đồng tình của tác giả. Thế các bạn có nghĩ sau đó ít lâu, cô bé Quỳnh Như 14 tuổi hát trong chương trình Solo cùng Bolero trên đài Truyền Hình Vĩnh Long.

- chiều chiều ven biên, bên đường cô đơn dừng bước..

Cô bé xin phép tác giả khi nào, hay là cô thấy bà Giao Linh trước đó đã sửa được lời, thì cô cũng sửa theo ý mình muốn.
Cứ theo đà này, có ngày sẽ thành

- Họp bàn luận cương, anh thường suy tư, nghiền ngẫm. Nhìn bầy đom đóm, anh bỗng nhớ đến ngày làm đoàn viên.....Ngày xa xưa anh thường nghe đài nói, nếu không vào đoàn thì ơi em ơi vào đâu...


Sưu tầm

Mời bạn vô video dưới để nghe bài hát này nhé ! 
Thân mến ! 

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2020

Mai Anh Việt & Vầng Tóc Rối

Đầu tháng 7 năm 2020, nhạc sĩ Mai Anh Việt cho ra mắt tập
“Tình khúc Mai Anh Việt” tập hợp những ca khúc anh đã sáng tác trong hơn 30 năm qua, bắt đầu từ những ca khúc như “Tàn dư một đời” và “Gió” viết năm 1985.
Thuở còn học Trường trung học Mạc Đỉnh Chi, Mai Anh Việt họcnhạc với nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Năm 1970, khi đang học lớp 10, anh bắt đầu viếtnhạc và học thêm nhạc lý với thầy Phó Quốc Thăng.
Sau khi anh Nguyễn Chánh Tín đậu tú tài 2 và rời trường, thầy Tổng giám thị Phạm Ngọc Đỉnh rất thích giọng hát
của Việt nên thuyết phục anh vào ca đoàn của trường thay thế Nguyễn Chánh Tín.
Năm 1974, anh được học bổng đi du học Đài Loan. Năm 1976, anh qua Mỹ, học nhạc tại St. Cloud University Minnesota  (1976-1978) và tại Đại học Portland ở Oregon (1978-1981). Anh lập gia đình năm 1979, định cư tại Aloha, bang Oregon.
Vào đầu thập niên 1990, Mai Anh Việt còn khá xa lạ với thính giả trong nước nhưng đã được biết đến khá nhiều ở hải ngoại qua album nhạc “Vầng tóc rối” (1991) với giọng ca của Thái Hiền, Thái Thảo, Thiên Phượng, Tuấn Ngọc và tác giả Mai Anh Việt. Album nhạc đầu tay của nhạc sĩ Mai Anh Việt ra mắt vào mùa hè năm 1991 (nhạc sĩ Duy Cường hòa âm, thực hiện với thiết bị tối tân nhất vào thời ấy là Master Reel To Reel 24 tracks tại phòng thu của John Tomlinson).
Ở trong nước, ca sĩ đầu tiên trình bày sáng tác của Mai Anh Việt là ca sĩ trẻ Quang Dũng, nhưng nhà sản xuất không dám đề tên tác giả của ca khúc “Anh xin làm” là nhạc sĩ Mai Anh Việt ở hải ngoại, mà lại đề tên Sỹ Đan.
Mai Anh Việt đã cho biết lý do vì sao những sáng tác âm nhạc của anh là những tình khúc: “Không có gì vĩnh cửu ngoài thời gian và sự chết.

Tình yêu, đôi khi, cũng được nhầm tưởng như thế. Đó là lý do tại sao những tình
khúc cần được ghi lại, trước khi bị lớp bụi thời gian khuất lấp”. Tình yêu
không phải là điều gì vĩnh cửu như thời gian và sự chết, nhưng những khoảnh khắc,
những xúc cảm trong tình yêu hay những kỷ niệm tình yêu được diễn đạt bằng ngôn
ngữ nghệ thuật sẽ còn lại mãi với thời gian.


Album “Vầng tóc rối” ra mắt năm 1991 rất được giới
audiophile trong nước ưa chuộng vì hòa âm và âm thanh hay, hồi năm 2016 đã được
tái bản với bìa mới do họa sĩ Đinh Trường Chinh thiết kế. Trong album nhạc này,
ca sĩ Tuấn Ngọc đã hát ca khúc “Anh xin làm”, một ca khúc có lời lẽ thiết tha về
“những kỷ niệm không dễ gì phôi pha” và “Vầng tóc rối”, một ca khúc lãng đãng về
những cơn say giúp lãng quên một bóng hình “đã tan vào cõi huyền không”.

VẦNG TÓC RỐI
Bước chân phiêu du đã đưa anh theo cơn giông đến với một
khung trời thênh thang và khi dừng bước trong giây lát chợt thấy tâm hồn lạc
loài, cơn mê của những năm tháng đã qua chỉ còn để lại cảm giác mệt nhoài. Đời
vẫn lặng lẽ trôi và tất cả những gì còn lại với anh là những đêm cô đơn phải
tìm lãng quên trong những cơn say:

“Ngày lạc bước phiêu du, tôi theo cơn giông, qua khung trời
rộng
Ðời lặng lẽ trôi qua, cơn mê mệt nhoài, đôi chân lạc loài
Còn lại những cơn say, theo tôi bao đêm, cho quên đời này …”
Dấu vết của tình yêu một thuở chỉ còn là những lá thư đã úa
màu theo năm tháng cũng như hình bóng của em đã thật xa mờ, nhưng anh vẫn cố
tìm lại những kỷ niệm xưa trong những đêm dài quạnh quẽ khi những cơn mưa ào ạt
đổ xuống:

“Nhìn lại cánh thư xưa, xanh xao nhạt màu, em yêu còn đâu ?
Lặng lẽ đi tìm dấu em đêm dài, nhịp nào gõ hồn tôi, cơn mưa
dạt dào vỗ về…”

Nhưng tìm mãi trong ký ức của những đêm dài đầy bóng tối, chỉ còn thấy một hình ảnh đã phai mờ như đã tan vào cõi hư không và chỉ còn lại một
chút hồi quang của một tình yêu thắm thiết đã chìm khuất sau bao tháng năm và
đã chôn chặt vĩnh viễn trong tâm hồn:

“Nhiều khi tôi tìm trong ký ức, vụng về bóng hình em, đã tan
vào cõi huyền không
Còn lại chút bao dung, tôi mang cho em, yên vui phận người
Về nhặt góp dư âm, tôi chôn trong tim, cưu mang muộn phiền…”
Tình yêu đã mất ấy không dễ quên nên có những lúc từ thinh
không vọng lại âm vang của một buổi chiều vàng trên đồi khi gió lồng lộng làm
tung bay mái tóc rối của em:
“Ngọn đồi gió năm xưa, vi vu âm vang, thinh không vọng lại
Vầng tóc rối em ngoan, bay trong chiều vàng, tôi yêu ngàn
năm…”

VẦNG TÓC RỐI

Ngày lạc bước phiêu du, tôi theo cơn dông, qua khung trời rộng
Ðời lặng lẽ trôi qua, cơn mê mệt nhoài, đôi chân lạc loài
Còn lại những cơn say, theo tôi bao đêm, cho quên đời này
Nhìn lại cánh thư xưa, xanh xao nhạt màu, em yêu còn đâu ?
Lặng lẽ đi tìm dấu em đêm dài, nhịp nào gõ hồn tôi, cơn mưa
dạt dào vỗ về
Nhiều khi tôi tìm trong ký ức, vụng về bóng hình em, đã tan
vào cõi huyền không
Còn lại chút bao dung, tôi mang cho em, yên vui phận người
Về nhặt góp dư âm, tôi chôn trong tim, cưu mang muộn phiền
Ngọn đồi gió năm xưa, vi vu âm vang, thinh không vọng lại
Vầng tóc rối em ngoan, bay trong chiều vàng, tôi yêu ngàn
năm…
**************************************************
Bài hát quá hay . Mời bạn Ckick video dưới để nghe nhé !
Nghe xong, bạn có thể Vào Đây để đọc thêm về âm nhạc.


Sưu tầm

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2020

Buông.

Bạn ! 

Buông là tên một bài hát có nội dung lời ca khá giống Air của lời ca nhạc Trịnh Công Sơn
Thanh Nhàn mới Phát Hiện ra nó rất hay !! 

*************************************


Bây giờ bạn nghe nhé ! 

Hình ảnh từ video 


  Chúc bạn nghe nhạc vui ! 

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2020

Anh Việt Thư và " Người ngoài phố"

Anh Việt Thư tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang, sinh năm 1939, quê ở Cái Bè, An Hữu thuộc tỉnh Mỹ Tho. Sau một năm theo đoàn du ca Phù Sa do ông thành lập - gồm ông, Anh Việt Thanh, Hà Phương, Phạm Minh Cảnh - biểu diễn từ Cần Thơ ra đến Huế, ông về hoạt động văn nghệ ở Saigon vào những năm 1970.
N/s Anh Việt Thu ( phải)

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã viết về nhạc sĩ tài hoa yểu mệnh Anh Việt Thu: “Anh Việt Thu mất sớm. Những ngày còn làm việc tại Phòng Văn nghệ thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị (do Thiếu tá Ðinh Thành Tiên, tức thi sĩ Tô Thùy Yên, làm trưởng phòng), Anh Việt Thu chỉ mới ngoài 30 tuổi; cùng làm việc trong Phòng Văn nghệ còn có nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, tức ca sĩ Nhật Trường. Chính trong thời gian này, Anh Việt Thu phát hiện mình bị ung thư rồi qua đời. Có thể coi Anh Việt Thu là thế hệ nhạc sĩ sau cùng sinh trưởng tại miền Nam, những người viết nhạc với tâm hồn đôn hậu của người miền Nam, ít cầu kỳ, cả trong giai điệu lẫn ca từ…”
Nhạc sĩ Trần Chí Phúc, tác giả ca khúc “Thu tiễn người”, đã viết về những nhạc phẩm nổi tiếng của Anh Việt Thu được công chúng biết đến từ thập niên 1960 đến thập niên 1970: “Anh Việt Thu sáng tác cả trăm bản nhạc nhưng chỉ có một số bản nhạc nổi tiếng và được hát nhiều lần cho tới hôm nay tại hải ngọai. Trước hết là bản “Giòng An Giang”, điệu valse vui tươi, tả dòng sông Cửu Long chảy ngang qua tỉnh An Giang, Châu Đốc với những nét đẹp tình tự quê hương:
“Dòng An Giang sông sâu nước biếc, dòng An Giang câу xɑnh lá thắm, lả lướt νề quɑ Thất Ѕơn, Châu Đốc dòng sông uốn quanh, soi bóng Ƭiền Giɑng, Cửu Long”.
Bản “Tám Điệp Khúc” nét nhạc buồn, luyến láy âm điệu miền sông nước Tiền Giang, Hậu Giang, là một ca khúc lạ nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông:
“Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu. Bàn tay năm ngón mưa sa. Dìu anh trong tiếng thở. Đưa tiễn anh đi vào đời. Mẹ Việt Nam ơi! Hai mươi năm ngăn lối rẽ đường về”.
Bản “Người Ngoài Phố”, lời và nhạc da diết, điệu bolero, làm cho người nghe thấm đẫm nỗi buồn chia ly”.
Chàng trai đi ngang qua công viên, nhìn nắng chiều nhạt dần rồi tắt và thấy vấn vương trong tâm hồn nỗi nhớ nhung một hình bóng đã xa mờ. Ghế đá trong công viên vẫn còn đây, nhưng những giây phút hẹn hò thuở nào đã vĩnh viễn không còn nữa:
"Người đi đi ngoài phố, chiều nắng tắt bên song
Người đi đi ngoài phố, bóng dáng xưa mịt mù
Thành ghế đá chiều công viên
Ngày xưa, ngày xưa, ngày xưa đã hết rồi...”
Bước chân lạc loài trong chiều vắng làm cho chàng thấy bơ vơ, ngỡ ngàng với biết bao kỷ niệm của cuộc tình đã tan vỡ:
“Người đi đi ngoài phố, chiều bỡ ngỡ bơ vơ
Người đi đi ngoài phố, mấy dấu chân lạc loài
Hình bóng cũ, người yêu ơi
Còn đâu, còn đâu? Tình duyên đã lỡ làng…”
Lệ đã dâng đầy trong mắt từ buổi chia tay và chiều nay lệ lại hoen mờ đôi mắt, nhưng làm sao tình yêu có thể không mang lại đau thương và làm sao mộng ước ban đầu có thể kết thành duyên mong ước?
“Thôi chia tay nhau từ đây, nghe nước mắt vây quanh
Biết lỡ yêu đương, sẽ đau thương suốt cả một đời,
Nhưng mấy khi tình đầu, kết thành duyên mong ước
Mấy khi tình đầu, kết trọn mộng đâu em…”
Chàng muốn quên hết những kỷ niệm xa xưa, làm một cánh chim cất cánh bay vút lên trời cao, lìa xa mãi mãi những cơn mưa trong thành phố buồn tênh và nỗi đau của một cuộc tình không may:
“Xin từ giã đường phố trắng mưa mau
Làm chim bay mỏi cánh
Nước mắt đêm tạ từ
Thành phố cũ người yêu xưa
Còn đâu, còn đâu? Giờ đây xin giã từ”.
NGƯỜI NGOÀI PHỐ
Người đi đi ngoài phố, chiều nắng tắt bên song
Người đi đi ngoài phố, bóng dáng xưa mịt mù
Thành ghế đá chiều công viên
Ngày xưa, ngày xưa, ngày xưa đã hết rồi...
Người đi đi ngoài phố, chiều bỡ ngỡ bơ vơ
Người đi đi ngoài phố, mấy dấu chân lạc loài
Hình bóng cũ người yêu ơi
Còn đâu, còn đâu? Tình duyên đã lỡ làng
Thôi chia tay nhau từ đây, nghe nước mắt vây quanh
Biết lỡ yêu đương, sẽ đau thương suốt cả một đời,
Nhưng mấy khi tình đầu, kết thành duyên mong ước
Mấy khi tình đầu, kết trọn mộng đâu em
Xin từ giã đường phố trắng mưa mau
Làm chim bay mỏi cánh
Nước mắt đêm tạ từ
Thành phố cũ người yêu xưa
Còn đâu, còn đâu? Giờ đây xin giã từ”.
Sưu tầm
Mời bạn xem video Như Quỳnh & bài hát trên




Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

Hoàng Thi Thơ và “Những ngày thơ mộng”


Hoàng Thi Thơ sinh ngày 1 tháng 7 năm 1929 tại làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, bắt đầu hoạt động nghệ thuật từ năm 1945, khi còn học trung học tại Huế và Hà Tĩnh. Sau Cách Mạng tháng Tám, ông gia nhập Đoàn Văn nghệ Quảng Trị như một diễn viên ca kịch nhạc do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ban làm trưởng đoàn. Đến tháng 8 năm 1946, ông trở lại Huế để tiếp tục học những năm cuối trung học.


Tháng 12 năm 1946, khi ông đang tham gia tuyên truyền cùng nhạc sĩ Trần Hoàn ở Huế, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sau khi Huế thất thủ, ông trở ra thành phố Vinh theo đề nghị của nhà thơ Lưu Trọng Lư. Ông bắt đầu làm báo, viết văn, trở thành phóng viên và biên tập viên của nhật báo Cứu Quốc của Việt Minh. Năm 1951, ông vào Saigon dạy tiếng Anh và sáng tác nhạc. Năm 1957, ông bắt đầu tổ chức những kỳ Đại nhạc hội tại rạp Thống Nhất và 4 năm sau thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam, lưu diễn qua nhiều nước châu Á .
Từ năm 1967, ông tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch tại nhà hàng Maxim's ở Saigon. Ông cũng được Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa và Tổng cục Chiến tranh Chính trị nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam lưu diễn ở các nước châu Âu...

Thời kỳ đi kháng chiến, Hoàng Thi Thơ đã có mối tình với cô Trương Tân Nhân, một người bạn học cùng trường. Về sau, khi ông bỏ kháng chiến về thành, bà Tân Nhân đã có thai, ở lại miền Bắc và tiếp tục sự nghiệp ca hát. Tháng 9 năm 1957, ông lập gia đình với ca sĩ Thúy Nga và có 4 người con: 3 trai, gái, trong đó, người con trưởng là Hoàng Thi Thi vừa là nhạc sĩ, vừa là kỹ sư.
Sau năm 1975, ông sang Mỹ, nhưng cũng có về Việt Nam 2 lần từ năm 1993. Sáng chủ nhật 23 tháng 9 năm 2001, ông qua đời tại nhà riêng ở Glendale, được an táng tại Huntington Beach.
Hoàng Thi Thơ đã sáng tác trên 400 ca khúc, từ tình ca đến nhạc quê hương, từ dân ca đến nhạc thời trang, từ đoản khúc đến trường ca, từ nhạc cảnh đến nhạc kịch. Nhiều ca khúc của Hoàng Thi Thơ đã quen thuộc với người Việt từ những năm 1950 cho đến sau năm 1975 như: “Rước tình về với quê hương", "Rong chơi cuối trời quên lãng", "Đường xưa lối cũ", "Tà áo cưới", "Trăng rụng xuống cầu", "Gạo trắng trăng thanh", "Đám cưới trên đường quê", "Duyên quê", "Tình ta với mình"... Ông cũng có những ca khúc kể lại những mối tình đau khổ của những người con gái như: "Chuyện tình cô lái đò Bến Hạ", "Chuyện tình La Lan", "Chuyện tình người trinh nữ tên Thi"...
Nữ ca sĩ Ngọc Minh đã viết những dòng tưởng niệm người nhạc sĩ đã sáng tác nhiều ca khúc về tình tự quê hương và nhiều tình khúc có ca từ dung dị gần gũi với tâm hồn của đại chúng: “Trong 50 năm sáng tác, Hoàng Thi Thơ đã viết trên 400 tác phẩm, đa số là những bài hát mang âm hưởng ngũ cung (dân ca) về tình tự quê hương. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ cũng viết rất nhiều bản tình ca đã được hàng triệu người ưa thích và thuộc lòng. Tôi đã hát rất nhiều tình ca của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ trong thời gian trước năm 1975 tại các vũ trường, nhưng hình như tôi không có duyên được thâu những tình khúc tuyệt vời của ông vào trong những băng nhạc đã thực hiện của Ngọc Minh Productions. Đã lâu lắm rồi, vào khoảng năm 1986 hay 1987, vũ sư Minh Cường đã thực hiện hai băng nhạc trong đó tôi đã hát hai bài của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là “Tìm anh” và “Những ngày thơ mộng”…” (Tưởng nhớ nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ)
Ca khúc “Những ngày thơ mộng” Ngọc Minh đã trình bày trong băng nhạc của Minh Cường là một ca khúc trữ tình dành cho những khoảng lặng giữa cuộc sống vội vã và đầy xáo động này. Trong những khoảng lặng ấy, anh tạm quên những muộn phiền và những lo toan của cuộc mưu sinh trong từng ngày để thả hồn về những ngày tươi sáng đã qua, và bao giờ hồi ức về những ngày thơ ấu thơ mộng cũng khơi dậy trong tâm hồn anh cảm giác bồi hồi khó nói thành lời. Đường đời có muôn vạn nẻo, nhưng chẳng có con đường nào có thể đưa anh trở về với “những ngày xinh như mộng”. Anh sẽ thẫn thờ tự hỏi:
“Tìm đâu những ngày thơ ấu qua?
Tìm đâu những ngày xinh như mộng?
Tìm đâu những ngày thơ?
Tìm đâu những chiều mơ?
Tìm đâu, biết tìm đâu, đâu giờ?“


Vào những ngày xa xưa ấy, anh chẳng hề biết thế nào là tình yêu dù có những lúc một nỗi nhớ thương mơ hồ nào đó vấn vương trong tâm hồn và len cả vào những giấc mơ:
“Tìm đâu những ngày chưa biết yêu?
Chỉ thấy, thấy lòng nhớ thương nhiều
Rồi đêm ta nằm mơ…”
Sự rung động của tâm hồn còn tinh khôi đã thôi thúc anh viết những câu thơ tình đầu tiên để bày tỏ nỗi nhớ nhung hay sự hờn trách nhẹ nhàng:
“Hồn say ta làm thơ
Ngồi ngâm trách lòng ai hững hờ...”
Khung cảnh thơ mộng đã mang lại cho anh những rung động đầu đời ấy là khung cảnh của đồng quê với đàn bướm trắng chập chờn bay trên những con đường loang nắng. Vào những buổi sớm mai hay những buổi chiều vắng lặng, văng vẳng tiếng hò của cô gái hàng xóm, nhưng đôi lúc không gian tĩnh lặng ấy cũng xôn xao với tiếng cười đùa của những đứa bạn cùng lứa tuổi:
“Ai tìm giùm đàn bướm trắng
Bay tìm tình đường loang nắng
Ai tìm giùm cô gái xóm
Khoe giọng hò đường hoang vắng
Và nhớ đi tìm đàn bé nô đùa
Ngoài đồng lúa hay trong sân chùa…”
Nhưng giờ đây, những ngày thơ ấu với biết bao mộng đẹp chỉ còn là kỷ niệm và nỗi tiếc nhớ khôn nguôi sẽ theo anh cho đến những giây phút cuối của cuộc đời:
“Tìm đâu những ngày thơ ước mơ?
Tìm đâu những ngày hết mong chờ?
Ngày thơ biết tìm đâu,
Ngày thơ biết tìm đâu,
Tìm đâu, biết tìm đâu, đâu giờ?”

Giờ bạn nghe nhạc nha ! ( bản này buồn, phù hợp với tinh dầu Oải Hương, Ngọc Lan !! )



Nguồn: FB Huỳnh Duy Lộc

Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2020

Hoàng Trọng & Một Thuở Yêu Đàn


Hoàng Trọng tên thật là Hoàng Trung Trọng, sinh năm 1922 ở Hải Dương, lớn lên ở Nam Ðịnh. Năm 11 tuổi, ông học nhạc với sự chỉ dạy của người anh ruột, nhạc sĩ Hoàng Trọng Quý. Ông chơi được nhiều nhạc cụ như vĩ cầm, tây ban cầm, hạ uy cầm và sáo. Năm 15 tuổi, ông học nhạc tại trường Công giáo Saint Thomas ở Nam Ðịnh và thành lập ban nhạc đầu tiên. Ban nhạc Nam Ðịnh gồm các anh em trong gia đình như Hoàng Trung An, Hoàng Trung Vinh và các thân hữu như Ðan Thọ, Bùi Công Kỳ, Ðặng Thế Phong, Phạm Ngữ, Vũ Dự, Tạ Phước… Hoàng Trọng là một trong những nhạc sĩ tiên phong sáng tác ca khúc cho nền tân nhạc Việt Nam. Ca khúc “Ðêm trăng” (1938), “Bóng trăng xưa” (1940), “Thu qua” (1941)…đã xuất hiện trong thời kỳ mở đầu nền tân nhạc Việt Nam.

Năm 1945, ông mở phòng trà, lập ban nhạc mang tên Thiên Thai ở Nam Ðịnh. Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông cùng gia đình lánh cư ở Phủ Nho Quan, Phát Diệm rồi về Hà Nội. Qua làn sóng Đài phát thanh, những ca khúc như “Ðêm trăng”, “Thu qua”, “Tiếng đàn ai”, “Lạnh lùng”, “Chiều tha hương”, “Khúc nhạc xuân” đã đưa tên tuổi Hoàng Trọng đến với thính giả khắp mọi miền đất nước.
Năm 1950, ông gia nhập Quân Nhạc Bảo Chính Ðoàn, điều khiển dàn nhạc nhẹ của chương trình phát thanh Bảo Chính Ðoàn trên Đài phát thanh Hà Nội. Từ năm 1950 đến năm 1954, trước khi di cư vào Nam, ông đã sáng tác trên 20 ca khúc, trong đó có “Nhạc sầu tương tư” và “Dừng bước giang hồ” rất được yêu thích. Năm 1954, đất nước bị chia đôi, ông theo làn sóng di cư vào Nam khi mới ngoài ba mươi tuổi, chai tay với vợ, sống trong cảnh gà trống nuôi con, lấy âm nhạc làm niềm an ủi. Tâm tình đó của ông được thể hiện qua hai ca khúc “Chiều xưa tưởng nhớ” và “Trăng sầu viễn xứ”. Từ năm 1955 đến năm 1960, ông sáng tác khoảng 40 ca khúc, trong đó có nhiều ca khúc nổi tiếng như: “Tình không biên giới”, “Mộng lành”, “Bên bờ đại dương”, “Mộng ban đầu”, “Bạn lòng”, “Nhớ về Ðà Lạt”, “Tiễn bước sang ngang”, “Ðàn yêu”…
Bước vào đầu thập niên 1960, nhiều nhạc phẩm trữ tình phát thường xuyên trên làn sóng của Đài phát thanh và được thu âm bởi các hãng đĩa đã làm say mê hàng triệu thính giả như: "Ngàn thu áo tím", “Tôi vẫn yêu hoa màu tím”, “Một thuở yêu đàn”, “Hai phương trời cách biệt”…

Năm 1992, Hoàng Trọng định cư tại Mỹ theo diện đoàn tụ, được sum họp với con cái và sống với người vợ cuối đời là ca sĩ Thu Tâm. Hoàng Trọng từ trần ngày 16 tháng 7 năm 1998 ở tuổi 75 tại Paolo Alto, Bắc California.
Nhà thơ Du Tử Lê đã nhận định về đóng góp của nhạc sĩ Hoàng Trọng cho nền tân nhạc Việt Nam: “Nhạc sĩ Hoàng Trọng là một trong những nhạc sĩ có công khai phá nền tân nhạc Việt Nam; cùng thời với những tên tuổi lớn thuộc giai đoạn đó, như Dương Thiệu Tước, Lê Thương, Nguyễn Xuân Khoát… Hoàng Trọng không chỉ là một trong những nhạc sĩ tiên phong khai phá nền tân nhạc Việt dựa trên thang âm thất cung mà ông còn là người nâng điệu tango tương đối còn xa lạ với giới thưởng ngoạn ở những thập niên 1930 – 1940 lên tới đỉnh cao nghệ thuật của điệu này. Vì thế, những người cùng giới với họ Hoàng đã không ngần ngại, đồng lòng phong tặng ông danh hiệu “Ông Hoàng tango” của tân nhạc Việt. Bên cạnh những ca khúc được coi là tuyệt vời với điệu tango, nhạc sĩ Hoàng Trọng cũng có những ca khúc còn lưu truyền tới hôm nay được ông viết với nhịp điệu chậm hơn tango như slow, bolero, rumba. Hoặc những ca khúc được viết với nhịp điệu nhanh hơn tango như march, fox, paso…”
Mời bạn nghe Thái Thanh với  Một Thuở Yêu Đàn nhé !  

Sưu Tầm


 

Subscribe to our Newsletter

'#'